Hy Lạp thuộc La Mã là thời đại người
La Mã chinh phục và cai trị lãnh thổ của vùng mà ngày nay là nước
Hy Lạp.
[1][2][3] Thời đại này bao trùm khoảng thời gian mà Hy Lạp cổ bị xâm chiếm bởi
Cộng hoà La Mã và sau đó là
Đế quốc La Mã.
[4] Trong
lịch sử Hy Lạp, kỉ nguyên thuộc La Mã bắt đầu bằng sự thất bại của
thành bang Corinth trong
Trận Corinth năm 146 trước Công nguyên. Dù sao, trước khi
Chiến tranh Achaean bùng nổ, Cộng hoà La Mã đã liên tục giành quyền kiểm soát phần đất liền của Hy Lạp với sự đánh bại
Vương quốc Macedon trong một chuỗi xung đột mang tên
Các cuộc chiến tranh Macedonia.
Chiến tranh Macedonia lần thứ tư kết thúc sau
Trận Pydna năm 148 trước Công nguyên với sự thất bại của
nhà cai trị không chính danh thuộc hoàng gia Macedonia
Andriscus.Sự cai trị dứt khoát của La Mã đối với thế giới Hy Lạp cổ được thiết lập sau
Trận Actium (năm 31 trước Công nguyên), trong đó
Augustus đánh bại
Cleopatra VII, nữ hoàng Ai Cập thuộc
Nhà Ptolemaios, và tướng La Mã
Mark Antony, và sau đó đánh chiếm
Alexandria - thành phố lớn cuối cùng của
Ai Cập thời Hy Lạp hoá (năm 30 trước Công nguyên).
[5] Trong giai đoạn này, thành phố
Byzantium được hoàng đế
Constantine Đại đế chấp nhận là Nova Roma, tức thủ đô của Đế quốc La Mã; năm 330 sau Công nguyên, thành phố được đổi tên là
Constantinople. Sau này,
Đế quốc Đông La Mã trở thành
Đế quốc Byzantine, kế thừa cả văn hoá Hy Lạp và La Mã cổ đại.